Các bệnh truyền nhiễm gia tăng nhanh
trong những năm gần đây và có nguy cơ cao thành các đợt dịch bệnh lớn, đe dọa
sức khỏe con người. Thời tiết đang lạnh dần và có những hình thái thất thường.
Đây là cơ hội cho các bệnh truyền nhiễm phát triển. Đặc
biệt, trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 đang diễn biến phức tạp thì việc quan
tâm đến các bệnh truyền nhiễm và nhận thức đúng về tầm quan trọng của công tác
kiểm soát và phòng ngừa bệnh dịch là rất quan trọng. Điều này sẽ giúp giảm thiểu
sự lây nhiễm chéo các bệnh truyền nhiễm, hạn chế tình trạng kháng kháng sinh và
giảm chi phí và thời gian điều trị cho người bệnh.
Những đặc trưng của bệnh truyền
nhiễm
Bệnh truyền nhiễm là các bệnh có mầm
bệnh là các vi sinh vật - virut vi khuẩn, vi nấm, các loại giun sán, ký sinh
đơn bào. Các tác nhân vi sinh này có khả năng xâm nhập vào cơ thể người và gây
bệnh.
Các bệnh sốt virut, cúm, sởi, quai
bị, sốt xuất huyết, viêm gan do virut, tay - chân - miệng, thương hàn, viêm
màng não... đều không xa lạ với mọi người và được gọi chung là bệnh truyền
nhiễm. Nguồn lây của các bệnh truyền nhiễm có thể là người hoặc động vật nhiễm
bệnh, môi trường: nước, đất, thức ăn, côn trùng trung gian như muỗi, ve, mò...
Mỗi tác nhân gây bệnh có những cách riêng để lây lan từ người bệnh hoặc người
nhiễm sang người lành. Đường lây bệnh thường gặp là: Lây qua đường hô hấp, khi
người lành (chưa mắc bệnh) hít phải các giọt dịch hô hấp từ người bệnh khi ho,
hắt hơi như: virut cúm, sởi, quai bị, một số vi khuẩn gây bệnh đường hô hấp,
viêm màng não... Lây qua đường tiêu hóa: do nuốt phải các mầm bệnh gây bệnh
trong thức ăn và nước uống như vi khuẩn tả, thương hàn, lỵ, các virut đường
ruột như virut gây bệnh tay - chân - miệng... Lây qua các vết đốt của côn trùng
như: sốt mò, sốt rét, sốt xuất huyết, viêm não Nhật Bản... Lây qua đường tình
dục, tiêm chích, truyền máu như HIV, giang mai, lậu, viêm gan B, C... Lây qua
vết cắn của động vật như chó mèo, chuột cắn: virut dại, bệnh chuột cắn... Một
số bệnh có khả năng lây truyền dọc từ mẹ sang con (HIV, viêm gan b, giang
mai,...).
Sau khi người lành tiếp xúc với tác
nhân gây bệnh truyền nhiễm sẽ có thời gian ủ bệnh trước khi có những triệu
chứng đầu tiên của bệnh. Các tác nhân vi sinh nhân bản trong cơ thể hoặc tiết
ra độc tố, làm rối loạn chức năng của các cơ quan và gây bệnh. Mỗi bệnh truyền
nhiễm có dấu hiệu cụ thể và các triệu chứng của nó. Tùy độc tố của tác nhân gây
bệnh và sức đề kháng của từng cơ thể mà biểu hiện bệnh của mỗi người khác nhau.
Rất nhiều bệnh truyền nhiễm có thể
tự khỏi sau một thời gian có biểu hiện triệu chứng, sau khi cơ thể sản sinh các
cơ chế miễn dịch loại trừ được tác nhân gây bệnh (sởi, Rubella, quai bị,...).
Tuy nhiên, một số trường hợp có diễn biến nặng và có nguy cơ tử vong nếu không
được điều trị phù hợp (viêm não do Herpes, viêm phổi do thủy đậu ở những người
suy giảm miễn dịch,...). Nhiều bệnh cần điều trị căn nguyên để cứu sống người
bệnh hoặc giảm thiểu biến chứng (viêm màng não do vi khuẩn hoặc nấm, bạch hầu,
thương hàn,...). Một số bệnh có thể để lại di chứng về chức năng (ví dụ, tình
trạng liệt sau bại liệt, chậm phát triển trí tuệ ở trẻ sau viêm não). Nhiều
bệnh sau khi khỏi sẽ để lại miễn dịch suốt đời, người đã bị bệnh không mắc lại
bệnh đó lần hai (quai bị, sởi,...). Một số tác nhân gây bệnh tồn tại lâu dài
trong cơ thể, gây bệnh mạn tính (như HIV, viêm gan virut B, C), có thể dẫn tới
hậu quả trầm trọng (HIV gây suy giảm miễn dịch, viêm gan B, C gây xơ gan, ung
thư gan,...).
Biện pháp phòng bệnh hiệu quả
Các bệnh truyền nhiễm có thể phòng
chống được rất hiệu quả bằng những biện pháp đơn giản sau đây:
Tiêm vắc-xin: là biện pháp chủ động
tạo miễn dịch cho người có khả năng bị lây nhiễm khi tiếp xúc với mầm bệnh.
Việc tiêm phòng phải được thực hiện khi người còn khỏe mạnh và theo lịch tiêm
phòng chung. Tỷ lệ người tiêm phòng càng cao, số người có miễn dịch trong cộng
đồng càng lớn và bệnh càng khó lây truyền.
Giữ vệ sinh cá nhân: hàng ngày cần
thực hiện rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, sau khi tiếp xúc với đồ
vật. Giữ vệ sinh răng miệng. Tắm rửa thường xuyên phòng bệnh viêm nhiễm trên
da. Rửa tay thường xuyên, đeo khẩu trang khi đi đường và khi đến chỗ đông
người. Thường xuyên ngủ màn.
Vệ sinh an toàn thực phẩm: ăn các
thức ăn đã nấu chín, uống nước đã đun sôi, đã được lọc hoặc xử lý; bảo quản
thức ăn đã chế biến một cách phù hợp (như bảo quản lạnh); ngăn không cho ruồi
nhặng đậu vào thức ăn; không dùng chung các dụng cụ chế biến thức ăn sống và
thức ăn chín. Các biện pháp này giúp ngăn ngừa các bệnh lây qua đường tiêu hóa
như: tả, lỵ, thương hàn,....
Vệ sinh môi trường: nhằm ngăn ngừa
sự lây truyền của các bệnh lây qua đường tiêu hóa, qua vết đốt côn trùng. Cần
loại bỏ chỗ sinh sản của muỗi truyền sốt rét, sốt xuất huyết và các bệnh do
muỗi truyền khác. Cung cấp nước sạch cho ăn uống và sinh hoạt. Cần thu gom và
xử lý rác thải, xử lý các chất thải của người và động vật hợp vệ sinh. Nuôi cá
để diệt bọ gậy, phun hóa chất diệt muỗi, ruồi; loại bỏ các dụng cụ chứa nước và
các vật thải rắn để hạn chế nơi sinh sản của muỗi...
Sống lành mạnh và quan hệ tình dục
an toàn: sống chung thủy, không quan hệ với người bán dâm, sử dụng bao cao su
khi quan hệ tình dục, không tiêm chích ma túy. Sống lành mạnh giúp ngăn ngừa
các bệnh lây qua đường tình dục (như giang mai, lậu, HIV,...) và các bệnh lây
qua các dịch tiết cơ thể khác (viêm gan B, viêm gan C...).
Khi bị mắc bệnh truyền nhiễm, người
bệnh cần đến khám ở các cơ sở y tế để được chẩn đoán và điều trị phù hợp. Việc
điều trị sẽ giúp bệnh nhân chóng hồi phục, tránh diễn biến nặng và tránh nguy
cơ tử vong, giảm sự lây truyền bệnh ra cộng đồng.